Đang tập trung xử lý nợ xấu mà ngân hàng vẫn lãi lớn
Một số vị đại biểu Quốc hội đề nghị phân tích rõ hơn các ngân hàng vẫn lãi lớn trong quá trình xử lý nợ xấu…
Việc tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của nghị quyết này là một trong hai nội dung được thảo luận tại nghị trường, từ sáng 01/6, trong ba phiên họp liên tục.
Nội dung được thảo luận cùng trong các phiên này là đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2022.
Trước đó, Quốc hội đã thảo luận tại tổ cả hai nội dung trên. Ngày 31/5, báo cáo tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đã hoàn thành và được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 chưa như kỳ vọng
Theo báo cáo, một số vị đại biểu cho rằng cần làm rõ trách nhiệm của việc triển khai thực hiện cũng như việc xây dựng kế hoạch thực hiện đầy đủ các yêu cầu của Nghị quyết số 42 và pháp luật về xử lý nợ xấu đúng thời hạn.
Nghị quyết số 42 đã quy định rõ việc giao Chính phủ trình Quốc hội đề xuất hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm (TSBĐ) tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, tức là ngay trước khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực, nhằm tránh tạo khoảng trống trong hệ thống pháp luật. Đồng thời Chính phủ đã có báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42, được Ủy ban Kinh tế đánh giá, thẩm tra và báo cáo Quốc hội vào năm 2020.
Tuy nhiên, đến thời điểm phiên họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ mới phần nào hoàn thành hồ sơ trình tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42, như vậy là còn chậm.
Nghị quyết số 42 mới cho phép thí điểm thực hiện một số chính sách đặc thù riêng để xử lý nợ xấu, quá trình xây dựng Nghị quyết năm 2017 còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến cơ chế thu giữ TSBĐ, đến nay thời gian thí điểm sắp hết (15/8/2022) nhưng trong Báo cáo tổng kết chủ yếu tập trung vào đánh giá quá trình xây dựng Nghị quyết và nêu về tình trạng nợ xấu, trong khi quá trình tổng kết thí điểm cần phải được đánh giá kỹ hơn đối với từng chính sách (ưu điểm, nhược điểm, vướng mắc từng chính sách) để làm cơ sở hoàn thiện chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu.
Về kết quả, Tổng thư ký Quốc hội cho biết, nhiều ý kiến cho rằng việc thi hành Nghị quyết số 42 đã mang lại chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu, kết quả xử lý nợ xấu đạt hơn 70% tổng số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017, có hiệu quả khi so sánh với thời điểm chưa ban hành Nghị quyết số 42, duy trì được tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 2%; giúp khơi thông nguồn vốn và đưa vốn ứ đọng luân chuyển vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế.
Nhưng, cũng có một số ý kiến cho rằng kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 vẫn chưa đạt được như kỳ vọng; tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu còn cao, kết quả xử lý nợ xấu chưa thật bền vững ở một số lĩnh vực, như: bất động sản, cho vay tiêu dùng vẫn còn nhiều rủi ro.
Có ý kiến đề nghị Chính phủ cần đánh giá kỹ hơn về nguyên nhân để xảy ra nợ xấu, nhất là nợ xấu trong các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro để làm cơ sở sửa đổi, bổ sung pháp luật có liên quan nhằm ngăn ngừa rủi ro từ sớm, từ xa; đánh giá nguyên nhân của nợ xấu và nợ xấu tiềm ẩn đến nay còn hơn 6%.
Có làm lợi cho ngân hàng hay không?
Một số vị đại biểu đề nghị phân tích rõ hơn các ngân hàng vẫn lãi lớn trong quá trình xử lý nợ xấu; như vậy quá trình xử lý nợ xấu có làm lợi cho ngân hàng hay không.
Đại biểu cũng cho rằng cần đánh giá rõ hơn về tác động của thực hiện Nghị quyết số 42 đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, khơi thông dòng vốn cũng như minh bạch hóa thị trường, nhất là cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém; cần đánh giá thêm nội dung về "sở hữu chéo" do Nghị quyết 42 được xây dựng vào thời điểm hệ thống các tổ chức tín dụng tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu chéo.
Đánh giá khó khăn, vướng mắc, Tổng thư ký Quốc hội cho biết, 8 ý kiến quan tâm đến áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án. Các ý kiến này đề nghị làm rõ thêm việc Nghị quyết số 42 có hiệu lực từ 15/8/2017, Điều 8 quy định về áp dụng thủ tục rút gọn và Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn thực hiện nội dung này nhưng theo tổng kết thì tính đến nay chưa có trường hợp nào được tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc quyền xử lý TSBĐ.
Sau 5 năm, nhiều thứ đã thay đổi…
Về sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng của Nghị quyết số 42, nhiều ý kiến thống nhất. Một số ý kiến cho rằng các tổ chức tín dụng cần có quy định riêng về xử lý nợ xấu bởi xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng là xử lý nợ xấu của toàn nền kinh tế, do đó cần kéo dài thực hiện Nghị quyết số 42 và sau đó luật hóa trong Luật tổ chức tín dụng hoặc luật mới/văn bản mới với những báo cáo đánh giá kỹ càng, cụ thể để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Một số ý kiến đề nghị xem xét, đánh giá kỹ việc kéo dài Nghị quyết số 42 do còn có nội dung của Nghị quyết chưa phù hợp và còn nhiều khó khăn, vướng mắc chưa giải quyết triệt để; trường hợp tiếp tục kéo dài có thể không đạt được hiệu quả; nhất là bối cảnh hiện nay đã có nhiều thay đổi so với 5 năm trước khi ban hành Nghị quyết; cần đánh giá tác động cụ thể đối với việc kéo dài này.
Có ý kiến đề nghị chỉ kéo dài Nghị quyết số 42 theo 1 trong 3 cách thức: (i) khắc phục những nội dung không phù hợp, bổ sung nội dung mới phù hợp vào Nghị quyết; (ii) ban hành Nghị quyết mới; (iii) Cần sửa các luật, quy định liên quan.
Một số ý kiến đề nghị Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước phải có cam kết, lộ trình, giải pháp và gắn với trách nhiệm cụ thể nếu tiếp tục kéo dài Nghị quyết số 42; dự liệu được những vấn đề có thể phát sinh trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng, bảo đảm tính liên tục, lâu dài, hiệu quả trong xử lý nợ xấu (01 ý kiến).
Báo cáo cũng nêu rõ, có ý kiến cho rằng không nên kéo dài thực hiện Nghị quyết số 42 mà cần nghiên cứu để có sửa đổi tổng thể các hệ thống pháp luật có liên quan.