A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tạo sức bật cho nền kinh tế Việt Nam khi động lực tăng trưởng truyền thống dần tới hạn

Cảnh báo các động lực tăng trưởng truyền thống đang dần tới hạn, các chuyên gia cho rằng, để tạo sức bật cho nền kinh tế, Việt Nam cần tận dụng sáng tạo nội lực và nâng vị thế trong chuỗi giá trị.

bcp-cdnchinhphu-vn_trien-vong-kinh-te-viet-nam-1745711583376749611089.jpg

Thông tin được đưa ra tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam lần 3 (VNEF 2025), với chủ đề “Sức bật kinh tế Việt Nam từ nội lực đến chuỗi giá trị toàn cầu” diễn ra chiều ngày 2/10 do Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương và Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam đồng chỉ đạo, giao các đơn vị trực thuộc hai cơ quan là Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Vụ Kinh tế tổng hợp và Tạp chí Kinh tế Việt Nam phối hợp tổ chức.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cho biết, đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa của 2 mục tiêu lớn là trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị khẳng định, “đây là mục tiêu thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam, khát vọng về một quốc gia hùng cường, thịnh vượng, sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

Những giới hạn từ động lực truyền thống

Tuy nhiên, tại VNEF 2025, các chuyên gia cũng nhấn mạnh rằng, mô hình tăng trưởng dựa vào mở rộng quy mô vốn, mở rộng xuất khẩu truyền thống và thu hút FDI không còn đủ sức để duy trì tốc độ tăng trưởng cao.

Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị thẳng thắn nhìn nhận, tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn chủ yếu theo chiều rộng, dưới mức tiềm năng và tốc độ có xu hướng giảm dần. Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn bất cập và dần tới hạn, thể hiện qua một số chỉ báo cụ thể như:

Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng: Tăng trưởng dựa nhiều vào vốn, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, trong khi đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp so với các nước công nghiệp. Năng suất lao động có cải thiện nhưng chậm.

Thứ hai, cơ cấu kinh tế: Công nghiệp gia công, lắp ráp chiếm ưu thế, giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ. Kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức phát triển chậm so với tiềm năng.

Thứ ba, dấu hiệu về môi trường đầu tư và cạnh tranh: Lợi thế dân số vàng đang thu hẹp, lợi thế chi phí lao động thấp dần mất tác dụng, trong khi năng suất chưa bứt phá, đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ chưa thực sự trở thành động lực chính của tăng trưởng.

Bên cạnh đó, kinh tế vẫn dựa nhiều vào FDI, chưa tạo nhiều đột phá về công nghệ và năng suất, giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ nội địa hóa thấp, liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI chưa bền chặt. Ngoài ra các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế không gian cận biên hay kinh tế tầm thấp vẫn chưa trở thành động lực đủ mạnh.

“Trong khi đó, tình hình thế giới biến động phức tạp, cạnh tranh thương mại, cạnh tranh công nghệ gay gắt. Các tiêu chuẩn quốc tế mới về thương mại và môi trường tạo ra nhiều thách thức cho sản xuất, xuất khẩu, tác động đến tăng trưởng khi một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam”, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương phát biểu.

TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhận định, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhìn chung vẫn là truyền thống và chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước. Cùng với đó là nguy cơ “bị bỏ lại phía sau” nếu quá trình bắt nhịp, đón bắt công nghệ không thành công.

“Việc duy trì mô hình tăng trưởng cũ trên cơ sở xu hướng, cách thức khai thác các động lực tăng trưởng truyền thống sẽ trở thành một thách thức lớn với mục tiêu tăng trưởng nếu không có thay đổi yêu cầu liên quan đến mô hình tăng trưởng”, TS. Nguyễn Đức Hiển chỉ ra nguy cơ nếu tiếp tục khai thác động lực cũ mà không thay đổi mô hình.

Một số hạn chế khác được Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chỉ ra là: tỷ lệ nhập khẩu linh kiện, thiết bị đầu vào công nghệ cao vẫn cao, khiến giá trị gia tăng trong sản phẩm trong nước thấp; sự lệ thuộc vào các mắt xích thấp trong chuỗi cung ứng quốc tế khiến Việt Nam dễ bị “mắc kẹt” khi đối tác siết điều kiện…

quang-canh-vnef-2025.jpg

Quang cảnh Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam (Vietnam New Economy Forum - VNEF) lần thứ ba.

Cùng quan điểm, GS,TS. Hoàng Văn Cường, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam chỉ ra rằng, nội lực của nền kinh tế chưa được phát huy tối đa. Xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào khu vực FDI (chiếm tới trên 70%). Sự kết nối và lan tỏa từ khu vực FDI sang các doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Hàm lượng giá trị gia tăng trong nước của các hàng hóa xuất khẩu chủ lực chỉ chiếm khoảng từ 30 đến 35%.

Mặt khác, sản xuất trong nước chủ yếu tập trung vào khâu gia công, lắp ráp, chủ yếu đảm nhận những khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị. Hệ quả là năng suất lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới và chậm được cải thiện. Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội của thời kỳ dân số vàng và có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Phát triển mô hình kinh tế mới, nâng cao giá trị trong các chuỗi cung ứng toàn cầu

Để đạt 2 mục tiêu lớn là trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, các chuyên gia đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường nội lực, phát triển các mô hình kinh tế mới, nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nhấn mạnh Việt Nam cần quyết tâm chuyển đổi mô hình tăng trưởng, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc lưu ý, quá trình chuyển đổi không chỉ cần được thực theo chiều rộng, mà còn phải tiến hành theo chiều sâu, phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của đất nước.

“Mô hình kinh tế mới không chỉ là sự lựa chọn, mà còn là yêu cầu của thực tiễn và mệnh lệnh của thời đại”, Phó Thủ tướng khẳng định.

Phó Thủ tướng chỉ rõ, Việt Nam phải làm chủ được nguồn nguyên liệu, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao; đa dạng hóa, mở rộng thị trường và quan trọng nhất là phải tham gia chặt chẽ chuỗi giá trị toàn cầu, tiến tới hình thành mô hình quản trị hiện đại, sử dụng hiệu quả tiềm năng, nguồn lực. Bên cạnh đó, cần thiết phải chủ động hội nhập, phát triển, phát huy nội lực, vị thế và giá trị của chuỗi giá trị toàn cầu để gia tăng sức mạnh nền kinh tế Việt Nam.

Chia sẻ các động lực tăng trưởng mới, ông TS. Nguyễn Đức Hiển chỉ rõ các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế dữ liệu, xanh bền vững, các ngành kinh tế mới như kinh tế tầm thấp, kinh tế cận biên, kinh tế không gian vũ trụ, kinh tế tuần hoàn. Trong đó, kinh tế số được dự báo sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính, thay thế dần mô hình tăng trưởng dựa trên vốn đầu tư và tài nguyên. Mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số đóng góp 30% GDP là một thách thức lớn.

Ông Trần Kim Chung, Chủ tịch CT Group đề xuất mô hình kinh tế không gian tầm thấp (Low Altitude Economy - LAE) như một động lực mới. Đây là mô hình kinh tế mới, khai thác khoảng không dưới 1.000- 3.000m so với mặt đất, với ứng dụng đa dạng các phương tiện bay tầm thấp như UAV, taxi bay, trực thăng nhỏ... phục vụ vận tải, logistics, nông nghiệp thông minh, du lịch, giám sát và cứu hộ.

“Mô hình này vừa phù hợp với xu thế phát triển công nghệ toàn cầu, vừa phù hợp với điều kiện, nguồn lực của Việt Nam hiện nay, khi chúng ta đang cùng vạch xuất phát với nhiều quốc gia khác. Đây chính là cơ hội vàng để Việt Nam tạo sức bật cho nền kinh tế và các ngành cùng phát triển”, Chủ tịch CT Group nhấn mạnh.

Ở góc độ doanh nghiệp công nghệ, ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC gợi ý, trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng của nền kinh tế, song song với việc hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn tới khai thác tối đa thị trường nội địa. Với quy mô dân số 100 triệu dân, thu nhập ngày càng cải thiện và hệ thống phân phối hiện đại, thị trường nội địa của Việt Nam thực sự là một “mỏ vàng” nếu được khai thác đúng cách.

Đồng thời, các doanh nghiệp phải chủ động làm chủ sản phẩm, khẳng định năng lực sáng tạo và đưa sản phẩm trí tuệ của mình ra thế giới, thay vì chỉ dừng lại ở khâu gia công. Các quốc gia trên thế giới như Ấn Độ đã vươn lên trở thành cường quốc công nghệ nhờ sự kiên định với con đường tự chủ và phát triển sản phẩm công nghệ nội địa của chính mình.

“Không chỉ với ngành công nghệ, mọi lĩnh vực kinh tế khác của Việt Nam cũng cần thay đổi tư duy, tập trung làm chủ sản phẩm và giá trị sáng tạo, qua đó từng bước nâng tầm vị thế, vươn lên ngang hàng với các cường quốc trên thế giới”, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC chia sẻ.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật