A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Giá kim loại đồng ngày 4/7: tăng do đồng USD yếu đi

Giá đồng tăng nhờ USD yếu hơn trong bối cảnh hy vọng mới về việc cắt giảm lãi suất của Mỹ và do sự lo lắng về nguồn cung bù đắp cho triển vọng ảm đạm về nhu cầu vật chất từ ​​quốc gia tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 1,5%.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 1,5%.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 1,5% lên 9.815 USD/tấn, trong khi hợp đồng đồng được giao dịch nhiều nhất trong tháng 8 trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải SCFcv1 tăng 1,2% lên 79.630 Nhân dân tệ (10.947,96 USD)/tấn.

Đồng USD vẫn đứng vững sau khi những bình luận từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell khiến lãi suất trái phiếu Mỹ thấp hơn, làm lu mờ báo cáo việc làm trong nước mạnh mẽ.

Kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất được củng cố đã nâng cao sự thèm muốn của các nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán và làm sáng tỏ triển vọng nhu cầu chung đối với kim loại.

Cũng hỗ trợ đồng là sự thắt chặt trên thị trường nguyên liệu thô. Bối cảnh tích cực về mặt cấu trúc của ngành khiến hầu hết mọi người đều “mua vào lúc giá thấp".

Công ty khai thác Freeport McMoran cho biết họ dự kiến ​​doanh số bán hàng hàng quý sẽ thấp hơn dự kiến ​​​​trước đây do việc xin giấy phép xuất khẩu cho công ty con ở Indonesia bị chậm trễ.

Một cuộc khảo sát khu vực tư nhân hôm thứ Tư cho thấy hoạt động dịch vụ của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ chậm nhất trong 8 tháng và niềm tin đạt mức thấp nhất 4 năm trong tháng 6, do số lượng đơn đặt hàng mới tăng trưởng chậm hơn.

Macquarie cho biết, nhu cầu đồng rõ ràng của Trung Quốc trong nửa đầu năm đã tăng 2% và nhu cầu cả năm có thể giảm 0,5% do hiệu ứng cơ bản cao trong nửa cuối năm.

Kẽm LME CMZN3 tăng 1,5% lên 2.966 USD/tấn, chì CMPB3 tăng 0,8% lên 2.219 USD và niken CMNI3 cao hơn 1,4% ở mức 17.235 USD, thiếc CMSN3 tăng 0,3% lên 33.025 USD, nhôm CMAL3 tăng 0,7% ở mức 2.540 USD.

SHFE kẽm SZNcv1 tăng 0,5% lên 24.555 Nhân dân tệ/tấn, nhôm SAFcv1 tăng 0,7% lên 20.490, niken SNIcv1 tăng 0,2% lên 137.880 Nhân dân tệ, trong khi chì SPBcv1 giảm 0,8% xuống 19.500 Nhân dân tệ và thiếc SSNcv1 ít dao động ở mức 273.620 Nhân dân tệ.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan