Hoàn thiện hành lanh pháp lý, đưa tài sản số làm tài sản bảo đảm
Việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ giúp ngân hàng và doanh nghiệp yên tâm hơn khi tiếp cận tài sản số, mà còn tạo động lực thúc đẩy tài chính xanh, kinh tế số – phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và phát triển bền vững
Đây là những chia sẻ được đưa ra tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng – Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4.
Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 1/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Tài chính đang khẩn trương, tích cực nghiên cứu để đề xuất khung pháp lý quản lý, thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số. Đây là một bước quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho lĩnh vực này, đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đảm bảo môi trường đầu tư an toàn.
Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng – Những vấn đề quan tâm hiện nay”
Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối (Blockchain), mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, TS. Lê Thị Giang, Trường Đại học Luật Hà Nội nhấn mạnh, chưa có quy định cụ thể về tài sản số trong hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự (2015) có định nghĩa tài sản nhưng không rõ ràng về tài sản số. Luật Giao dịch điện tử không đề cập đến tài sản số mà chỉ bảo vệ giao dịch điện tử. Nghị định 101/2012/NĐ-CP đề cập đến tiền điện tử nhưng không công nhận Bitcoin và tiền ảo là phương tiện thanh toán hợp pháp. Nghị định 80/2016/NĐ-CP cấm phát hành và sử dụng tiền ảo như Bitcoin. Quyết định 194/QĐ-TTg và Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số là dự thảo Luật lần đầu tiên định nghĩa về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số. Mở đường cho việc quản lý và giao dịch bảo đảm tài sản số (thế chấp, kỹ quỹ)....
Theo TS. Lê Thị Giang, tài sản số có tính thanh khoản cao, dễ giao dịch, minh bạch, tiết kiệm chi phí và góp phần thúc đẩy kinh tế số. Do đó, việc hoàn thiện khung pháp lý là yêu cầu cấp thiết để bắt kịp thực tiễn phát triển và xu hướng toàn cầu hóa.
Trước hết, cần xác lập rõ ràng địa vị pháp lý của tài sản số, coi đây là loại hình tài sản trong Bộ luật Dân sự. Đây là tiền đề để có thể sử dụng loại tài sản này làm tài sản bảo đảm trong các giao dịch tài chính. Hiện pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể, trong khi thực tế giao dịch và nhu cầu sử dụng đang ngày càng lớn…
“Việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ giúp ngân hàng và doanh nghiệp yên tâm hơn khi tiếp cận loại tài sản mới mà còn tạo động lực thúc đẩy tài chính xanh, kinh tế số – phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và phát triển bền vững”, TS. Lê Thị Giang cho biết.
TS, Luật sư Vũ Văn Tính - Giảng viên Học viện Hành chính & Quản trị công, Cố vấn Công ty Luật TNHH SALUS thì đề nghị, Việt Nam nên nghiên cứu ban hành luật hoặc Nghị định riêng về tài sản số, quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan như: nhà phát hành, sàn giao dịch, nhà đầu tư và yêu cầu cấp phép hoạt động. Mặt khác, tăng cường giám sát chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, yêu cầu sàn giao dịch đăng ký với cơ quan quản lý.
Ngoài ra, cần công khai thông tin về các rủi ro, phí giao dịch và tiêu thụ năng lượng của các dự án tài sản số để bảo vệ người tiêu dùng và môi trường; Phát triển cơ chế pháp lý cho hợp đồng thông minh, đảm bảo tính ràng buộc pháp lý khi sử dụng trong thế chấp tài sản số; Cho phép thế chấp tài sản số trong giao dịch bất động sản, giảm rào cản cho nhà đầu tư nước ngoài và tối ưu hóa thuế…
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Kim Hùng - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Kim Nam nhấn mạnh đến giải pháp định giá tài sản số. Rủi ro tranh chấp tài sản số sẽ diễn ra phức tạp hơn so với các loại tài sản thế chấp thông thường. Vì vậy, bên cạnh thể chế, cần các giải pháp công nghệ để định giá, quản lý tài sản số minh bạch và hiệu quả.
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Giacomo Merello, Chủ tịch Hội đồng Thúc đẩy kinh doanh tài sản kỹ thuật số Antigua và Barbuda; đặc phái viên Kinh tế đặc biệt của Thủ tướng Antigua và Barbuda tại Singapore, cho biết, hầu hết các quốc gia trên thế giới chưa có quy định rõ ràng về giao dịch tài sản số, đặc biệt là việc sử dụng crypto làm tài sản thế chấp. Do đó, phần lớn quy định hiện tại là tự điều chỉnh bởi các ngân hàng và họ đều rất thận trọng bởi có rất nhiều yếu tố rủi ro liên quan. Chỉ một số ít cơ quan quản lý trung ương bắt đầu đưa ra hướng dẫn về loại hình giao dịch này. Các vấn đề pháp lý xuyên biên giới cũng rất phức tạp, đặc biệt đối với ngân hàng.
Về kinh nghiệm quốc tế, lấy ví dụ tại Thuỵ Sĩ, ông Giacomo Merello cho biết, quốc gia này có hệ thống ngân hàng mạnh mẽ và đã sớm tiếp cận tiền điện tử. Các ngân hàng như Bitcoin Suisse, Sygnum và SEBA cung cấp dịch vụ ngân hàng tài sản spps và cho vay thế chấp bằng tài sản số, được quản lý bởi Cơ quan Giám sát Thị trường Tài chính Thụy Sĩ (FINMA). Tuy nhiên, quy mô vẫn còn nhỏ so với ngân hàng truyền thống và các dịch vụ này chủ yếu hướng đến các nhà đầu tư tổ chức lớn và các công ty crypto muốn quản lý thanh khoản, không dành cho cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ.
Đối với Việt Nam, ông Giacomo Merello cũng đánh giá, chưa có khung pháp lý toàn diện cho tài sản số. Chính phủ nên theo sát những động thái từ các nước trên thế giới để rút kinh nghiệm.
“Việt Nam là một quốc gia với tiềm năng phát triển rất lớn trong lĩnh vực công nghệ và tài sản số. Vì vậy, việc xây dựng khung pháp lý tài sản số một cách thận trọng là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nếu không kịp thời tạo điều kiện pháp lý phù hợp, nhiều doanh nghiệp có thể sẽ phải tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến thuế đối với tài sản số cần được chú trọng để đảm bảo cách tiếp cận vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo trong nước”, ông Giacomo Merello đề xuất.