Ngân hàng Nhà nước sửa Thông tư 09/2023/TT-NHNN nhằm sớm đưa Việt Nam ra khỏi Danh sách Xám
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng chống rửa tiền (PCRT). Việc sửa đổi nhằm tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc chính của đối tượng báo cáo trong quá trình triển khai; cũng như hỗ trợ công tác giám sát, nâng cao hiệu quả đánh từ phía NHNN và các cơ quan quản lý chuyên ngành.
Đồng thời, việc sửa đổi, bổ sung cũng nhằm tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc chính của đối tượng báo cáo trong quá trình triển khai Thông tư 09/2023/TT-NHNN; hỗ trợ công tác giám sát, nâng cao hiệu quả đánh từ phía NHNN và các cơ quan quản lý chuyên ngành.
Thông tư này sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN đối với các nội dung quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo; quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền và phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền; quy định nội bộ về PCRT; chế độ báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo; chế độ báo cáo giao dịch đáng ngờ; giao dịch chuyển tiền điện tử; chế độ báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử; hình thức và thời hạn báo cáo dữ liệu điện tử.
Đối tượng áp dụng của thông tư là các đối tượng đã quy định tại Thông tư số 09/2023/TT-NHNN, gồm: (1) Tổ chức tài chính; (2) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành, nghề phi tài chính có liên quan; (3) Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức nước ngoài, người nước ngoài, tổ chức quốc tế có giao dịch với tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành, nghề phi tài chính có liên quan; (4) Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến PCRT.
Dự thảo Thông tư bổ sung khoản 6 Điều 3 như sau: “6. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Phòng, chống rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ, ngành quản lý nhà nước theo lĩnh vực của đối tượng báo cáo theo Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư này”.
Lý giải sự điều chỉnh này, Thông tư số 09/2023/TT-NHNN đã quy định tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Phòng, chống rửa tiền, tuy nhiên, chưa có quy định về mẫu báo cáo kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của các đối tượng báo cáo.
Việc thiếu quy định mẫu báo cáo dẫn đến một số bất cập trong quá trình triển khai thực hiện, cụ thể: Các đối tượng báo cáo hiện đang tự xây dựng và gửi báo cáo kết quả đánh giá rủi ro theo các mẫu biểu, hình thức trình bày khác nhau. Điều này gây khó khăn cho NHNN và các bộ, ngành quản lý trong việc tổng hợp, so sánh và đánh giá chất lượng giữa các báo cáo; thời gian qua, NHNN (Cục PCRT) đã tiếp nhận ý kiến của một số đối tượng báo cáo đề nghị có hướng dẫn thống nhất về mẫu báo cáo đánh giá rủi ro để thuận tiện trong quá trình thực hiện và đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ của thông tin báo cáo.
Do đó, việc bổ sung quy định tại Thông tư nhằm: (i) thiết lập cơ sở pháp lý cho việc ban hành mẫu báo cáo đánh giá rủi ro; (ii) đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong báo cáo giữa các đối tượng báo cáo; (iii) hỗ trợ công tác giám sát, đánh giá hiệu quả hơn từ phía NHNN và các cơ quan quản lý chuyên ngành.
Dự thảo cũng sửa đổi bổ sung khoản 1, Điều 4 về Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền và phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền, nhằm quy định rõ thẩm quyền phê duyệt quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền là do: theo khuyến nghị của FATF, NHNN phải có quy định yêu cầu các tổ chức tài chính và các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBP) có các chính sách, kiểm soát và các thủ tục được quản lý cấp cao phê chuẩn. Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 09/2023/TT-NHNN chỉ yêu cầu tổ chức tài chính xây dựng và thực hiện quy trình, chưa quy định cụ thể cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Về nguyên tắc, tổ chức tài chính ban hành quy trình nội bộ theo phân cấp tại quy định nội bộ, tuy nhiên, việc này có thể dẫn tới việc quy trình được xây dựng, ban hành nhưng chưa đảm bảo tuân thủ và đáp ứng yêu cầu về sự giám sát của “quản lý cấp cao”.
Đối với việc bổ sung “Quy trình nhân biết khách hàng trên cơ sở rủi ro”, NHNN cho biết, việc bổ sung quy trình này để hướng dẫn chi tiết quy định tại Luật PCRT, đảm bảo sự phù hợp với nguyên tắc quản lý rủi ro trong phòng, chống rửa tiền. Luật PCTRT 2022 đều nhấn mạnh nguyên tắc "áp dụng biện pháp phòng ngừa trên cơ sở rủi ro" đối với khách hàng, sản phẩm và giao dịch.
Trong khi đó, tại Thông tư số 09/2023/TT-NHNN chưa tách bạch và cụ thể hóa quy trình nhận biết khách hàng trên cơ sở rủi ro trong nhận biết khách hàng, khiến việc thực thi nguyên tắc này còn lúng túng hoặc thiếu trọng tâm. Do đó, việc bổ sung riêng một quy trình nhận biết khách hàng trên cơ sở rủi ro sẽ giúp tổ chức tài chính thiết lập quy trình phù hợp hơn với từng loại khách hàng và mức độ rủi ro, nâng cao hiệu quả nhận diện và giảm thiểu rủi ro bị lợi dụng để rửa tiền.
"Việc yêu cầu có một quy trình riêng sẽ là cơ sở pháp lý rõ ràng để NHNN đánh giá mức độ tuân thủ của các tổ chức tài chính trong các cuộc thanh tra, kiểm tra", NHNN cho biết.
Dự thảo Thông tư cũng sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 4 Thông tư 09/2023/TT-NHNN như sau: “Đối tượng báo cáo không được áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ trong trường hợp nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc trùng với kịch bản rủi ro cao do đối tượng báo cáo xác định”. Theo lý giải của NHNN, việc sửa đổi này nhằm bảo đảm cụ thể hóa yêu cầu của Khuyến nghị 10.18 của FATF: Khuyến nghị 10.18 quy định rõ: “Các biện pháp đơn giản hóa này phải tương xứng với các yếu tố rủi ro thấp, nhưng sẽ không được chấp nhận một khi có nghi ngờ về RT/TTKB hoặc khi kịch bản về rủi ro cao được áp dụng” Việc bổ sung quy định này là cần thiết để đảm bảo pháp luật Việt Nam tương thích hoàn toàn với chuẩn mực quốc tế, phục vụ công tác đánh giá của FATF/APG.
Thực tế cho thấy, một số tổ chức tài chính có thể áp dụng biện pháp đơn giản hóa với lý do khách hàng thuộc nhóm “rủi ro thấp” dù đã xuất hiện dấu hiệu nghi ngờ. Nếu khách hàng trùng khớp với các kịch bản này, nhưng vẫn được hưởng biện pháp giảm nhẹ, sẽ dẫn đến lỗ hổng lớn trong kiểm soát nội bộ. Bổ sung quy định này giúp tổ chức tài chính có cơ sở pháp lý rõ ràng để loại trừ áp dụng giảm nhẹ khi rủi ro tăng cao.
Dự thảo cũng sửa đổi bổ sung Khoản 1, 3, 9 Điều 5 liên quan đến quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền nhằm làm rõ và khắc phục thiếu hụt tại Khuyến nghị 10 của FATF và Đánh giá của APG. Bởi, theo Khuyến nghị của FATF tại 10.2, 10.3, 10.4, yêu cầu về nhận biết khách hàng đối với giao dịch không thường xuyên bằng hoặc vượt ngưỡng giá trị được quy định vẫn còn chưa rõ ràng, đặc biệt là đối với các chuỗi giao dịch có dấu hiệu liên quan nhưng chưa cấu thành hành vi đáng ngờ riêng lẻ. APG nhận xét rằng: “vẫn chưa rõ điều này có bao gồm các giao dịch được thực hiện trong một số hoạt động có vẻ như có liên quan hay không, mà không ảnh hưởng đến bao gồm cả các hoạt động đơn lẻ.”
Việc sửa đổi lần này đưa thêm khái niệm về “đến từ một hoặc nhiều tổ chức tài chính nghi ngờ có sự gắn kết với nhau” nhằm đảm bảo rằng các hoạt động chia nhỏ giao dịch nhằm né tránh ngưỡng báo cáo sẽ vẫn bị giám sát và phải thực hiện nhận biết khách hàng theo đúng yêu cầu quốc tế. Đồng thời, dự thảo cũng bổ sung cụ thể hóa các tình huống nhận biết khách hàng để đảm bảo thống nhất và khả thi trong triển khai.
Ngoài ra, dự thảo cũng sửa đổi, bổ sung một số điểm tại Điều 6 (Chế độ báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo), Điều 7 (Chế độ báo cáo giao dịch đáng ngờ), Điều 8 (Giao dịch chuyển tiền điện tử), Điều 9 (Chế độ báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử), Điều 10 (Hình thức và thời hạn báo cáo dữ liệu điện tử).
Dự thảo Thông tư được thiết kế gồm 4 điều, cụ thể: Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, trong đó: sửa đổi 12 khoản tại các Điều 4, 5, 7, 9, 10; bổ sung mới 05 khoản tại các Điều 3, 4, 5, 8 và sửa đổi Điều 6; Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số cụm từ, Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 09/2023/TT-NHNN; Điều 3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện; Điều 4. Điều khoản thi hành.